Năm ngoái, hàng chục năm sau khi rải 20 triệu gallon chất độc da cam khắp Việt Nam, Mỹ đã cam kết đóng góp 400.000 USD để tài trợ một phần cho một nghiên cứu mới về vấn đề này. Thật là một tin đáng mừng! Chắc chắn rằng sự bất định về kết quả của nghiên cứu này là lý do duy nhất khiến Mỹ chưa thể cung cấp sự hỗ trợ đáng kể cho những người như vợ chồng May và Song - hai bậc cha mẹ thông minh nhưng nghèo khó của bốn đứa con khuyết tật, tất cả đều được sinh ra sau khi người cha từng sống trong một khu vực trước đó bị phun rải chất độc da cam nặng nề.
Cuối cùng, gần bốn
mươi năm sau khi một chàng trai trẻ bước ra khỏi khu rừng trơ trụi vì chất diệt
cỏ với một căn bệnh da kỳ lạ, rồi sinh ra một cậu con trai có đôi chân hình chiếc
xuồng trước khi anh ta qua đời vì ung thư, nước Mỹ mới có thể xác định phải làm
gì để chuộc lỗi. Mười sáu năm sau khi người con trai đó sinh ra một bé gái cũng
mang đôi chân hình chiếc xuồng giống cha, quốc gia giàu có và quyền lực nhất thế
giới cuối cùng cũng bắt tay vào việc quyết định liệu họ có trách nhiệm giúp đỡ
những gia đình như vậy hay không.
Tôi tự hỏi, liệu kết
quả của nghiên cứu trị giá hàng triệu đô la ấy có thực sự mang lại lợi ích gì
cho những thế hệ bị ảnh hưởng bởi dị tật bẩm sinh và cái chết sớm do ung thư - những
người vẫn đang sống trong cảnh nghèo đói kéo dài sau nhiều thập kỷ bị Mỹ cấm vận,
chồng chất lên bao năm chiến tranh hay không? Liệu dự án trị giá 14 triệu USD để
tẩy rửa khu vực đất nhiễm dioxin tại sân bay Đà Nẵng có mang lại sự an ủi nào
cho họ?
Gần đây, tôi có dịp
đi cùng một nhóm sinh viên Mỹ thuộc Chương trình Việt Nam của Đại học SUNY
Brockport trong những chuyến thăm vào sáng thứ Năm đến các gia đình có trẻ khuyết
tật tại Đà Nẵng. Các sinh viên này đang học ngành công tác xã hội, vì vậy họ
làm đúng những gì họ đã được đào tạo: ngồi xuống với các gia đình, đặt câu hỏi,
rồi lắng nghe.
Hai tuần trước,
chúng tôi ngồi xuống và lắng nghe người mẹ nhỏ bé của cô bé có đôi chân hình
chiếc xuồng kể về nỗi buồn của bà khi con gái mình - một học sinh chăm chỉ và
nghiêm túc - không thể đi học trung học. Bà nói rằng trường học quá xa để có thể
đi bộ, và bà không thể giữ thăng bằng để chở con gái trên xe đạp. (Đôi chân đặc
biệt của cô bé không chỉ khiến em phải dùng nạng gỗ mới có thể đi lại mà còn
khiến em không thể tự đạp xe). Một người bạn tốt bụng sống gần trường đã đề nghị
cho cô bé ở nhờ để tiện việc học, nhưng tiếc thay, điều đó là không thể.
“Tại sao vậy ạ?” một
sinh viên hỏi.
“Vì con gái tôi
không thể đứng mà không có nạng, nên không thể tự tắm rửa và chăm sóc vệ sinh
cá nhân nếu không có tôi giúp”- người mẹ thổ lộ.
Là nhà vật lý trị
liệu duy nhất trong phòng, tôi đưa ra một gợi ý: có lẽ cô bé có thể ngồi trên một
chiếc ghế nhựa khi tắm, và nếu khoét một lỗ trên mặt ghế, em có thể tự chăm sóc
vệ sinh cá nhân khi sử dụng nhà vệ sinh kiểu “xí bệt” của Việt Nam.
Người mẹ sững sờ,
còn người cha thì rạng rỡ. Khi chúng tôi rời đi, họ nắm chặt tay tôi, mỉm cười
rạng rỡ. Chuyện gì đã xảy ra? Đơn giản là có ai đó đã ngồi xuống, lắng nghe câu
chuyện của họ và đưa ra một gợi ý nhỏ. Và nhờ đó, một cô bé 16 tuổi - một nạn
nhân thế hệ thứ ba của chất độc da cam - có thể đi học phổ thông trung học.
Chúng tôi không cần
một nghiên cứu trị giá hàng triệu đô la. Chỉ cần một nhóm sinh viên Mỹ và một
nhà vật lý trị liệu trung niên người Mỹ lắng nghe câu chuyện của một gia đình.
Tại sao điều đó lại khó đến vậy? Chúng tôi thậm chí còn không phải mua cái ghế
nhựa.