27.1.08

SỨ MỆNH THAY ĐỔI

 

Tôi muốn kể cho bạn một câu chuyện, nhưng trước tiên, hãy để tôi vẽ nên một bức tranh.

Hãy tưởng tượng một quốc gia đang phát triển với dân số 86 triệu người. 90% phương tiện giao thông trên đường phố là xe máy. Mỗi ngày, 38 người tử vong do tai nạn giao thông - chủ yếu là do chấn thương sọ não sau tai nạn xe máy. Nhiều người khác trở thành tàn tật vĩnh viễn - mỗi ngày - cũng vì tai nạn xe máy. Ai cũng biết về vấn đề này - rất khó để di chuyển trên đường mà không bắt gặp hiện trường của một vụ tai nạn nào đó. Nếu bạn hỏi mọi người, gần như ai cũng biết một người đã tử vong hoặc bị tàn tật sau một vụ tai nạn xe máy.

Thế nhưng, hầu như không ai đội mũ bảo hiểm.

Trong nhiều năm, Chính phủ, Tổ chức Y tế Thế giới và các tổ chức phi chính phủ khác đã cố gắng giải quyết thảm họa này. Các nghiên cứu được tiến hành. Những chiếc mũ bảo hiểm nhẹ, giá rẻ, phù hợp với khí hậu nhiệt đới của đất nước này đã được thiết kế. Một tổ chức phi chính phủ thậm chí còn xây dựng một nhà máy sản xuất mũ bảo hiểm. Một tổng thống Mỹ (Bill Clinton) đã được mời đến để khởi động chương trình cung cấp mũ bảo hiểm miễn phí cho trẻ em. Một số tuyến đường nhất định được chỉ định là “đường bắt buộc đội mũ bảo hiểm” và những người không đội mũ bị phạt với mức phạt mang tính tượng trưng.

Vậy mà, cho đến trước ngày 15 tháng 12 năm 2007, chưa đến 5% người đi xe máy đội mũ bảo hiểm.

Và bây giờ là câu chuyện:

Chồng tôi và tôi đến Việt Nam vào năm 2005 để làm tình nguyện viên ngắn hạn tại một trung tâm phục hồi chức năng ở Đà Nẵng. Nhiều bệnh nhân mà chúng tôi điều trị tại đây bị chấn thương não - chủ yếu là do tai nạn xe máy.

Mỗi ngày sau giờ làm, chúng tôi ra ngoài ăn tối và thường xuyên chứng kiến những vụ tai nạn xe máy. Đây là những vụ va chạm ở tốc độ thấp, không phải những vụ tai nạn thảm khốc mà bạn có thể hình dung. Thực tế, chấn thương duy nhất thường là ở đầu, khi người lái xe bị hất qua tay lái hoặc ngã ngửa ra sau. Đáng tiếc thay, chấn thương đầu như vậy lại đủ nghiêm trọng để gây tử vong hoặc tàn tật vĩnh viễn do xuất huyết nội sọ. Nếu người lái xe đội mũ bảo hiểm, họ có thể đã thoát nạn.

Thế nhưng không ai đội mũ bảo hiểm, ngay cả những nhà vật lý trị liệu và bác sĩ Việt Nam - những người hàng ngày điều trị cho bệnh nhân chấn thương sọ não.

Chúng tôi nhận ra rằng, mặc dù mũ bảo hiểm có giá khá rẻ theo tiêu chuẩn Mỹ, nhưng đối với nhiều người Việt Nam, đó vẫn là một khoản chi phí lớn. Hơn nữa, rõ ràng là không ai muốn trở thành người duy nhất đội mũ bảo hiểm trên đường.

Cuối thời gian tình nguyện, chồng tôi và tôi quyết định giải quyết cả hai vấn đề đó bằng cách cung cấp mũ bảo hiểm miễn phí cho tất cả nhân viên của trung tâm phục hồi chức năng. Các nhân viên tỏ ra rất vui mừng, và giám đốc trung tâm thậm chí còn tuyên bố rằng từ nay, ông sẽ yêu cầu toàn bộ nhân viên đội mũ bảo hiểm khi đi làm.

Chúng tôi cũng phát sách hướng dẫn mà chúng tôi tự biên soạn từ các bài báo trên internet, được dịch sang tiếng Việt, để giúp các chuyên gia phục hồi chức năng giải thích rõ hơn với cộng đồng về lý do “Tại sao chúng tôi đội mũ bảo hiểm.” Trong phần còn lại của thời gian ở Đà Nẵng, chúng tôi thấy nhân viên trung tâm đều đội mũ bảo hiểm khi đi làm.

Chúng tôi đã nghĩ rằng mình đã tìm ra chìa khóa để thay đổi thói quen đội mũ bảo hiểm ở Việt Nam: chỉ cần cung cấp mũ bảo hiểm, những lập luận thuyết phục và một chút hỗ trợ từ cộng đồng.

Nhưng một năm sau, khi chúng tôi quay lại trung tâm đó ở Đà Nẵng, bạn có biết có bao nhiêu trong số 60 nhân viên vẫn còn đội mũ bảo hiểm không?

Không một ai. Hoàn toàn không một ai - kể cả giám đốc trung tâm.

“Chuyện gì đã xảy ra vậy?” tôi hỏi. “Mũ bảo hiểm đâu rồi?”

“Mũ vẫn ở nhà,” họ trả lời. “Chúng tôi chỉ đội khi đi trên Quốc lộ 1, nơi bắt buộc phải đội mũ bảo hiểm.”

Chà, điều đó thực sự đáng thất vọng.

Vào đầu năm 2007, chúng tôi đã thiết lập một mối quan hệ hợp tác với một bệnh viện phục hồi chức năng khác – lần này là một cơ sở trực thuộc Sở Y tế Đà Nẵng. Trùng hợp thay, năm 2007 cũng được chọn là Năm An toàn Giao thông tại Việt Nam. Trong quá trình làm việc, hướng dẫn các kỹ thuật viên vật lý trị liệu và sinh viên ngành vật lý trị liệu tại bệnh viện phục hồi chức năng này, thật khó để bỏ qua thực tế rằng hơn một nửa số bệnh nhân ở đây là nạn nhân của tai nạn xe máy, nhiều người trong số họ bị chấn thương sọ não nghiêm trọng. Tôi yêu thích thử thách điều trị bệnh nhân thần kinh, nhưng rõ ràng là tôi và đội ngũ kỹ thuật viên vật lý trị liệu còn non trẻ ở Việt Nam không bao giờ có thể theo kịp dòng bệnh nhân chấn thương sọ não mới nhập vào các bệnh viện mỗi ngày. Vì vậy, chúng tôi quyết định thử một lần nữa với vấn đề đội mũ bảo hiểm.

Lần này, chúng tôi tiếp cận Sở Y tế Đà Nẵng với đề xuất rằng tổ chức của chúng tôi, Steady Footsteps, sẽ cung cấp miễn phí mũ bảo hiểm cho toàn bộ nhân viên của Sở nếu Sở Y tế bắt buộc họ phải sử dụng. Họ đồng ý. Với rất nhiều sự chú ý của công chúng, cùng với ba đoàn làm phim truyền hình ghi hình, tôi và phiên dịch viên của mình đã phát biểu trước một hội nghị gồm 80 cán bộ quản lý của Sở Y tế. Chúng tôi nói về thảm kịch chấn thương sọ não đang diễn ra ở Việt Nam. Chúng tôi nhấn mạnh rằng vai trò lãnh đạo của họ là rất quan trọng để đảm bảo sự an toàn cho nhân viên. Và chúng tôi cũng đề cập đến tiềm năng của những nhân viên đội mũ bảo hiểm sẽ trở thành tấm gương tích cực cho cộng đồng.

Kế hoạch đã thành công – nhưng chỉ ở một mức độ nhất định. Tất cả 3.401 nhân viên đã nhận được những chiếc mũ bảo hiểm màu xanh nhạt, phù hợp với khí hậu nhiệt đới, có in logo của Sở Y tế ở hai bên. Các bảo vệ tại cổng của 26 cơ sở trực thuộc Sở Y tế Đà Nẵng không cho phép nhân viên ra vào nếu không đội mũ bảo hiểm. Nhân viên đội mũ bảo hiểm – ngay cả khi đi chợ. Và nhờ sự đưa tin của truyền hình, bao gồm các cuộc phỏng vấn với chính các nhân viên và hình ảnh logo nhận diện trên mũ, họ đã trở thành một nhóm người đội mũ bảo hiểm có uy tín và dễ nhận biết. Tuy nhiên, việc đội mũ bảo hiểm vẫn chưa lan rộng ra toàn bộ dân số.

Tuy nhiên, vào cuối năm đó, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành một Nghị định[1] bắt buộc đội mũ bảo hiểm trên toàn quốc. (Những tổ chức như Quỹ Phòng chống Chấn thương Châu Á đã thúc đẩy sáng kiến này trong nhiều năm, vì vậy tôi chắc chắn không nhận công lao của mình cho bước tiến này.) Quy định đội mũ bảo hiểm bắt buộc được áp dụng trên các tuyến đường liên tỉnh từ ngày 1 tháng 11 và luật yêu cầu đội mũ bảo hiểm toàn diện – bao gồm cả trong thành phố – được lên kế hoạch thực thi vào ngày 15 tháng 12 năm 2007. Các đài truyền hình phát sóng các thông điệp tuyên truyền cộng đồng, bao gồm những câu chuyện xúc động và những thước phim chân thực, kêu gọi mọi người tự bảo vệ mình bằng cách đội mũ bảo hiểm. Ngay khi luật có hiệu lực trên các tuyến đường liên tỉnh, các bản tin buổi tối liên tục chiếu cảnh chặn xe của cảnh sát, phỏng vấn những người vừa bị bắt và bị phạt – và nếu họ không mang theo giấy đăng ký xe, xe máy của họ sẽ bị tịch thu. Điều đó thu hút sự chú ý của mọi người. Chỉ sau một đêm, mọi người bắt đầu đội mũ bảo hiểm mỗi khi đi xa. Tuy nhiên, trong thành phố, chỉ có nhân viên Sở Y tế và những người từ ngoại ô đến là đội mũ bảo hiểm. Bạn có thể thấy cảnh sát làm rất tốt trong việc thực thi luật đội mũ bảo hiểm trên một số tuyến đường chính bên ngoài thành phố, nhưng thật khó để tưởng tượng họ có thể làm cách nào để thuyết phục người dân trong thành phố tuân thủ luật.

Nhưng họ đã làm được. Vào ngày 14 tháng 12 năm 2007, chưa đến 5% người đi xe máy trong thành phố đội mũ bảo hiểm. Vào sáng ngày 15 tháng 12 năm 2007, con số đó đã vượt quá 95%. Những người "quên" đội mũ nhanh chóng bị chặn lại bởi các trạm kiểm soát giao thông được thiết lập khắp thành phố.

Bây giờ, hơn một tháng sau, cảnh sát không còn phải làm việc ngoài giờ và tin tức đã chuyển sang những vấn đề khác. Nhưng mọi người vẫn tiếp tục đội mũ bảo hiểm. Nếu trước đây việc đội mũ bảo hiểm được xem là một điều kỳ quặc đáng chế nhạo, thì bây giờ nó đã trở thành “bình thường”. Một người không đội mũ bảo hiểm giờ đây bị coi là “kẻ liều lĩnh”. Các ca chấn thương sọ não mới trở nên ít phổ biến hơn, nhưng các phòng khám ngoại trú đang tiếp nhận một nhóm bệnh nhân mới – những người bị ngã xe khi đã đội mũ bảo hiểm. Thay vì nằm trong nhà xác hoặc đơn vị chấn thương sọ não, họ đang được điều trị chứng “chấn thương cổ” – một chẩn đoán có tiên lượng tốt hơn rất nhiều.

Vậy bài học rút ra từ câu chuyện này là gì? Đơn giản thôi: thay đổi hành vi trên quy mô lớn đòi hỏi những nỗ lực phối hợp trên quy mô lớn, ngay cả khi không có sự phản đối nào. Ở Việt Nam, không có tập đoàn lớn nào hưởng lợi hay bị ảnh hưởng bởi việc đội mũ bảo hiểm toàn dân. Không có áp lực kinh tế nào tác động đến chính phủ theo hướng này hay hướng khác. Dịch vụ y tế ở Việt Nam chủ yếu là tự chi trả, và chính phủ không có hỗ trợ đáng kể nào cho các gia đình bị ảnh hưởng bởi cái chết hoặc tàn tật do tai nạn giao thông. Thực tế về chấn thương sọ não đã quá rõ ràng, vậy mà mọi người vẫn không thể tự giác làm một điều đơn giản như đội mũ bảo hiểm. Phải có sự kết hợp của lãnh đạo chính trị, thực thi pháp luật, truyền thông, và cả công tác chuẩn bị từ trước của một tổ chức phi chính phủ sẵn sàng đầu tư vào việc thiết kế và sản xuất mũ bảo hiểm khi chưa có thị trường cho nó. Tất cả những điều đó đã tạo nên một thành công "chỉ sau một đêm". Nhưng điều quan trọng cần nhận ra là ở đây KHÔNG có sự phản đối nào đối với việc đội mũ bảo hiểm hay luật đội mũ bảo hiểm – và ngay cả như vậy, việc tạo ra sự thay đổi vẫn vô cùng khó khăn.

Vậy, nếu có một thế lực mạnh mẽ và có tổ chức chống lại nỗ lực của chúng ta thì sao?

Ở Mỹ, lựa chọn thay đổi trên quy mô lớn không phải là điều có thể thực hiện được đối với những ai muốn xã hội của chúng ta đi theo hướng tiến bộ hơn. Truyền thông và chính phủ Mỹ hợp tác để gạt ra ngoài lề hoặc thậm chí làm cho những tác nhân tiềm năng của sự thay đổi trở nên vô hình. Vậy thì hãy cứ như vậy. Hãy trở thành những người “thay đổi từ bên dưới” theo đúng nghĩa: hãy biến đổi xã hội từ nền tảng. Hãy bắt đầu công việc khó khăn là xây dựng tình bạn chân thành, cộng đồng hỗ trợ, mạng lưới thực phẩm địa phương và các nhóm tương trợ – những điều sẽ bảo vệ và nâng đỡ chúng ta khi nền kinh tế dầu mỏ, hệ thống tín dụng, chủ nghĩa đế quốc và chính phủ do tập đoàn thao túng ngày càng trở nên không còn phù hợp với cuộc sống của chúng ta.


[1] Nghị quyết số 32/2007/NĐ-CP ngày 29/6/2007 của Chính phủ và các công điện chỉ đạo thực hiện của Thủ tướng Chính phủ, từ ngày 15/12/2007 người đi mô tô, xe gắn máy bắt buộc đội mũ bảo hiểm trên tất cả các tuyến đường (không có ngoại lệ).