Tôi muốn kể cho bạn
một câu chuyện, nhưng trước tiên, hãy để tôi vẽ nên một bức tranh.
Hãy tưởng tượng một
quốc gia đang phát triển với dân số 86 triệu người. 90% phương tiện giao thông
trên đường phố là xe máy. Mỗi ngày, 38 người tử vong do tai nạn giao thông - chủ
yếu là do chấn thương sọ não sau tai nạn xe máy. Nhiều người khác trở thành tàn
tật vĩnh viễn - mỗi ngày - cũng vì tai nạn xe máy. Ai cũng biết về vấn đề này -
rất khó để di chuyển trên đường mà không bắt gặp hiện trường của một vụ tai nạn
nào đó. Nếu bạn hỏi mọi người, gần như ai cũng biết một người đã tử vong hoặc bị
tàn tật sau một vụ tai nạn xe máy.
Thế nhưng, hầu như
không ai đội mũ bảo hiểm.
Trong nhiều năm, Chính
phủ, Tổ chức Y tế Thế giới và các tổ chức phi chính phủ khác đã cố gắng giải
quyết thảm họa này. Các nghiên cứu được tiến hành. Những chiếc mũ bảo hiểm nhẹ,
giá rẻ, phù hợp với khí hậu nhiệt đới của đất nước này đã được thiết kế. Một tổ
chức phi chính phủ thậm chí còn xây dựng một nhà máy sản xuất mũ bảo hiểm. Một
tổng thống Mỹ (Bill Clinton) đã được mời đến để khởi động chương trình cung cấp
mũ bảo hiểm miễn phí cho trẻ em. Một số tuyến đường nhất định được chỉ định là
“đường bắt buộc đội mũ bảo hiểm” và những người không đội mũ bị phạt với mức phạt
mang tính tượng trưng.
Vậy mà, cho đến
trước ngày 15 tháng 12 năm 2007, chưa đến 5% người đi xe máy đội mũ bảo hiểm.
Và bây giờ là câu chuyện:
Chồng tôi và tôi đến Việt Nam vào năm 2005 để làm tình nguyện viên ngắn hạn
tại một trung tâm phục hồi chức năng ở Đà Nẵng. Nhiều bệnh nhân mà chúng tôi điều
trị tại đây bị chấn thương não - chủ yếu là do tai nạn xe máy.
Mỗi ngày sau giờ làm, chúng tôi ra ngoài ăn tối và thường xuyên chứng kiến
những vụ tai nạn xe máy. Đây là những vụ va chạm ở tốc độ thấp, không phải những
vụ tai nạn thảm khốc mà bạn có thể hình dung. Thực tế, chấn thương duy nhất thường
là ở đầu, khi người lái xe bị hất qua tay lái hoặc ngã ngửa ra sau. Đáng tiếc
thay, chấn thương đầu như vậy lại đủ nghiêm trọng để gây tử vong hoặc tàn tật
vĩnh viễn do xuất huyết nội sọ. Nếu người lái xe đội mũ bảo hiểm, họ có thể đã
thoát nạn.
Thế nhưng không ai đội mũ bảo hiểm, ngay cả những nhà vật lý trị liệu và
bác sĩ Việt Nam - những người hàng ngày điều trị cho bệnh nhân chấn thương sọ
não.
Chúng tôi nhận ra rằng, mặc dù mũ bảo hiểm có giá khá rẻ theo tiêu chuẩn Mỹ,
nhưng đối với nhiều người Việt Nam, đó vẫn là một khoản chi phí lớn. Hơn nữa,
rõ ràng là không ai muốn trở thành người duy nhất đội mũ bảo hiểm trên đường.
Cuối thời gian tình nguyện, chồng tôi và tôi quyết định giải quyết cả hai vấn
đề đó bằng cách cung cấp mũ bảo hiểm miễn phí cho tất cả nhân viên của trung
tâm phục hồi chức năng. Các nhân viên tỏ ra rất vui mừng, và giám đốc trung tâm
thậm chí còn tuyên bố rằng từ nay, ông sẽ yêu cầu toàn bộ nhân viên đội mũ bảo
hiểm khi đi làm.
Chúng tôi cũng phát sách hướng dẫn mà chúng tôi tự biên soạn từ các bài báo
trên internet, được dịch sang tiếng Việt, để giúp các chuyên gia phục hồi chức
năng giải thích rõ hơn với cộng đồng về lý do “Tại sao chúng tôi đội mũ bảo hiểm.” Trong phần còn lại của thời
gian ở Đà Nẵng, chúng tôi thấy nhân viên trung tâm đều đội mũ bảo hiểm khi đi
làm.
Chúng tôi đã nghĩ rằng mình đã tìm ra chìa khóa để thay đổi thói quen đội
mũ bảo hiểm ở Việt Nam: chỉ cần cung cấp mũ bảo hiểm, những lập luận thuyết phục
và một chút hỗ trợ từ cộng đồng.
Nhưng một năm sau, khi chúng tôi quay lại trung tâm đó ở Đà Nẵng, bạn có biết
có bao nhiêu trong số 60 nhân viên vẫn còn đội mũ bảo hiểm không?
Không một ai. Hoàn toàn không một ai - kể cả
giám đốc trung tâm.
“Chuyện gì đã xảy ra vậy?” tôi hỏi. “Mũ bảo hiểm đâu rồi?”
“Mũ vẫn ở nhà,” họ trả lời. “Chúng tôi chỉ đội khi đi trên Quốc lộ 1, nơi bắt
buộc phải đội mũ bảo hiểm.”
Chà, điều đó thực sự đáng thất vọng.
Vào đầu năm 2007, chúng tôi đã thiết lập một mối quan hệ hợp tác với một bệnh
viện phục hồi chức năng khác – lần này là một cơ sở trực thuộc Sở Y tế Đà Nẵng.
Trùng hợp thay, năm 2007 cũng được chọn là Năm
An toàn Giao thông tại Việt Nam. Trong quá trình làm việc, hướng dẫn các kỹ
thuật viên vật lý trị liệu và sinh viên ngành vật lý trị liệu tại bệnh viện phục
hồi chức năng này, thật khó để bỏ qua thực tế rằng hơn một nửa số bệnh nhân ở
đây là nạn nhân của tai nạn xe máy, nhiều người trong số họ bị chấn thương sọ
não nghiêm trọng. Tôi yêu thích thử thách điều trị bệnh nhân thần kinh, nhưng
rõ ràng là tôi và đội ngũ kỹ thuật viên vật lý trị liệu còn non trẻ ở Việt Nam
không bao giờ có thể theo kịp dòng bệnh nhân chấn thương sọ não mới nhập vào
các bệnh viện mỗi ngày. Vì vậy, chúng tôi quyết định thử một lần nữa với vấn đề
đội mũ bảo hiểm.
Lần này, chúng tôi tiếp cận Sở Y tế Đà Nẵng với đề xuất rằng tổ chức của
chúng tôi, Steady Footsteps, sẽ cung cấp miễn phí mũ bảo hiểm cho toàn bộ nhân
viên của Sở nếu Sở Y tế bắt buộc họ phải sử dụng. Họ đồng ý. Với rất nhiều sự
chú ý của công chúng, cùng với ba đoàn làm phim truyền hình ghi hình, tôi và
phiên dịch viên của mình đã phát biểu trước một hội nghị gồm 80 cán bộ quản lý
của Sở Y tế. Chúng tôi nói về thảm kịch chấn thương sọ não đang diễn ra ở Việt
Nam. Chúng tôi nhấn mạnh rằng vai trò lãnh đạo của họ là rất quan trọng để đảm
bảo sự an toàn cho nhân viên. Và chúng tôi cũng đề cập đến tiềm năng của những
nhân viên đội mũ bảo hiểm sẽ trở thành tấm gương tích cực cho cộng đồng.
Kế hoạch đã thành công – nhưng chỉ ở một mức độ nhất định. Tất cả 3.401
nhân viên đã nhận được những chiếc mũ bảo hiểm màu xanh nhạt, phù hợp với khí hậu
nhiệt đới, có in logo của Sở Y tế ở hai bên. Các bảo vệ tại cổng của 26 cơ sở
trực thuộc Sở Y tế Đà Nẵng không cho phép nhân viên ra vào nếu không đội mũ bảo
hiểm. Nhân viên đội mũ bảo hiểm – ngay cả khi đi chợ. Và nhờ sự đưa tin của
truyền hình, bao gồm các cuộc phỏng vấn với chính các nhân viên và hình ảnh
logo nhận diện trên mũ, họ đã trở thành một nhóm người đội mũ bảo hiểm có uy
tín và dễ nhận biết. Tuy nhiên, việc đội mũ bảo hiểm vẫn chưa lan rộng ra toàn
bộ dân số.
Tuy nhiên, vào cuối năm đó, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành một Nghị định[1] bắt buộc đội mũ bảo hiểm
trên toàn quốc. (Những tổ chức như Quỹ
Phòng chống Chấn thương Châu Á đã thúc đẩy sáng kiến này trong nhiều năm,
vì vậy tôi chắc chắn không nhận công lao của mình cho bước tiến này.) Quy định
đội mũ bảo hiểm bắt buộc được áp dụng trên các tuyến đường liên tỉnh từ ngày 1
tháng 11 và luật yêu cầu đội mũ bảo hiểm toàn diện – bao gồm cả trong thành phố
– được lên kế hoạch thực thi vào ngày 15 tháng 12 năm 2007. Các đài truyền hình
phát sóng các thông điệp tuyên truyền cộng đồng, bao gồm những câu chuyện xúc động
và những thước phim chân thực, kêu gọi mọi người tự bảo vệ mình bằng cách đội
mũ bảo hiểm. Ngay khi luật có hiệu lực trên các tuyến đường liên tỉnh, các bản
tin buổi tối liên tục chiếu cảnh chặn xe của cảnh sát, phỏng vấn những người vừa
bị bắt và bị phạt – và nếu họ không mang theo giấy đăng ký xe, xe máy của họ sẽ
bị tịch thu. Điều đó thu hút sự chú ý của mọi người. Chỉ sau một đêm, mọi người
bắt đầu đội mũ bảo hiểm mỗi khi đi xa. Tuy nhiên, trong thành phố, chỉ có nhân
viên Sở Y tế và những người từ ngoại ô đến là đội mũ bảo hiểm. Bạn có thể thấy
cảnh sát làm rất tốt trong việc thực thi luật đội mũ bảo hiểm trên một số tuyến
đường chính bên ngoài thành phố, nhưng thật khó để tưởng tượng họ có thể làm
cách nào để thuyết phục người dân trong thành phố tuân thủ luật.
Nhưng họ đã làm được. Vào ngày 14 tháng 12 năm 2007, chưa đến 5% người đi
xe máy trong thành phố đội mũ bảo hiểm. Vào sáng ngày 15 tháng 12 năm 2007, con
số đó đã vượt quá 95%. Những người "quên" đội mũ nhanh chóng bị chặn
lại bởi các trạm kiểm soát giao thông được thiết lập khắp thành phố.
Bây giờ, hơn một tháng sau, cảnh sát không còn phải làm việc ngoài giờ và
tin tức đã chuyển sang những vấn đề khác. Nhưng mọi người vẫn tiếp tục đội mũ bảo
hiểm. Nếu trước đây việc đội mũ bảo hiểm được xem là một điều kỳ quặc đáng chế
nhạo, thì bây giờ nó đã trở thành “bình thường”. Một người không đội mũ bảo hiểm
giờ đây bị coi là “kẻ liều lĩnh”. Các ca chấn thương sọ não mới trở nên ít phổ
biến hơn, nhưng các phòng khám ngoại trú đang tiếp nhận một nhóm bệnh nhân mới
– những người bị ngã xe khi đã đội mũ bảo hiểm. Thay vì nằm trong nhà xác hoặc
đơn vị chấn thương sọ não, họ đang được điều trị chứng “chấn thương cổ” – một
chẩn đoán có tiên lượng tốt hơn rất nhiều.
Vậy bài học rút ra từ câu chuyện này là gì? Đơn giản thôi: thay đổi hành vi
trên quy mô lớn đòi hỏi những nỗ lực phối hợp trên quy mô lớn, ngay cả khi
không có sự phản đối nào. Ở Việt Nam, không có tập đoàn lớn nào hưởng lợi hay bị
ảnh hưởng bởi việc đội mũ bảo hiểm toàn dân. Không có áp lực kinh tế nào tác động
đến chính phủ theo hướng này hay hướng khác. Dịch vụ y tế ở Việt Nam chủ yếu là
tự chi trả, và chính phủ không có hỗ trợ đáng kể nào cho các gia đình bị ảnh hưởng
bởi cái chết hoặc tàn tật do tai nạn giao thông. Thực tế về chấn thương sọ não
đã quá rõ ràng, vậy mà mọi người vẫn không thể tự giác làm một điều đơn giản
như đội mũ bảo hiểm. Phải có sự kết hợp của lãnh đạo chính trị, thực thi pháp
luật, truyền thông, và cả công tác chuẩn bị từ trước của một tổ chức phi chính
phủ sẵn sàng đầu tư vào việc thiết kế và sản xuất mũ bảo hiểm khi chưa có thị
trường cho nó. Tất cả những điều đó đã tạo nên một thành công "chỉ sau một
đêm". Nhưng điều quan trọng cần nhận ra là ở đây KHÔNG có sự phản đối nào
đối với việc đội mũ bảo hiểm hay luật đội mũ bảo hiểm – và ngay cả như vậy, việc
tạo ra sự thay đổi vẫn vô cùng khó khăn.
Vậy, nếu có một thế lực mạnh mẽ và có tổ chức chống lại nỗ lực của chúng ta
thì sao?
Ở Mỹ, lựa chọn thay đổi trên quy mô lớn không phải là điều có thể thực hiện
được đối với những ai muốn xã hội của chúng ta đi theo hướng tiến bộ hơn. Truyền
thông và chính phủ Mỹ hợp tác để gạt ra ngoài lề hoặc thậm chí làm cho những
tác nhân tiềm năng của sự thay đổi trở nên vô hình. Vậy thì hãy cứ như vậy. Hãy
trở thành những người “thay đổi từ bên dưới” theo đúng nghĩa: hãy biến đổi xã hội
từ nền tảng. Hãy bắt đầu công việc khó khăn là xây dựng tình bạn chân thành, cộng
đồng hỗ trợ, mạng lưới thực phẩm địa phương và các nhóm tương trợ – những điều
sẽ bảo vệ và nâng đỡ chúng ta khi nền kinh tế dầu mỏ, hệ thống tín dụng, chủ
nghĩa đế quốc và chính phủ do tập đoàn thao túng ngày càng trở nên không còn
phù hợp với cuộc sống của chúng ta.
[1]
Nghị quyết số 32/2007/NĐ-CP ngày 29/6/2007 của Chính phủ và các công điện chỉ đạo
thực hiện của Thủ tướng Chính phủ, từ ngày 15/12/2007 người đi mô tô, xe gắn
máy bắt buộc đội mũ bảo hiểm trên tất cả các tuyến đường (không có ngoại lệ).