27.1.08

SỨ MỆNH THAY ĐỔI

 

Tôi muốn kể cho bạn một câu chuyện, nhưng trước tiên, hãy để tôi vẽ nên một bức tranh.

Hãy tưởng tượng một quốc gia đang phát triển với dân số 86 triệu người. 90% phương tiện giao thông trên đường phố là xe máy. Mỗi ngày, 38 người tử vong do tai nạn giao thông - chủ yếu là do chấn thương sọ não sau tai nạn xe máy. Nhiều người khác trở thành tàn tật vĩnh viễn - mỗi ngày - cũng vì tai nạn xe máy. Ai cũng biết về vấn đề này - rất khó để di chuyển trên đường mà không bắt gặp hiện trường của một vụ tai nạn nào đó. Nếu bạn hỏi mọi người, gần như ai cũng biết một người đã tử vong hoặc bị tàn tật sau một vụ tai nạn xe máy.

Thế nhưng, hầu như không ai đội mũ bảo hiểm.

Trong nhiều năm, Chính phủ, Tổ chức Y tế Thế giới và các tổ chức phi chính phủ khác đã cố gắng giải quyết thảm họa này. Các nghiên cứu được tiến hành. Những chiếc mũ bảo hiểm nhẹ, giá rẻ, phù hợp với khí hậu nhiệt đới của đất nước này đã được thiết kế. Một tổ chức phi chính phủ thậm chí còn xây dựng một nhà máy sản xuất mũ bảo hiểm. Một tổng thống Mỹ (Bill Clinton) đã được mời đến để khởi động chương trình cung cấp mũ bảo hiểm miễn phí cho trẻ em. Một số tuyến đường nhất định được chỉ định là “đường bắt buộc đội mũ bảo hiểm” và những người không đội mũ bị phạt với mức phạt mang tính tượng trưng.

Vậy mà, cho đến trước ngày 15 tháng 12 năm 2007, chưa đến 5% người đi xe máy đội mũ bảo hiểm.

Và bây giờ là câu chuyện:

Chồng tôi và tôi đến Việt Nam vào năm 2005 để làm tình nguyện viên ngắn hạn tại một trung tâm phục hồi chức năng ở Đà Nẵng. Nhiều bệnh nhân mà chúng tôi điều trị tại đây bị chấn thương não - chủ yếu là do tai nạn xe máy.

Mỗi ngày sau giờ làm, chúng tôi ra ngoài ăn tối và thường xuyên chứng kiến những vụ tai nạn xe máy. Đây là những vụ va chạm ở tốc độ thấp, không phải những vụ tai nạn thảm khốc mà bạn có thể hình dung. Thực tế, chấn thương duy nhất thường là ở đầu, khi người lái xe bị hất qua tay lái hoặc ngã ngửa ra sau. Đáng tiếc thay, chấn thương đầu như vậy lại đủ nghiêm trọng để gây tử vong hoặc tàn tật vĩnh viễn do xuất huyết nội sọ. Nếu người lái xe đội mũ bảo hiểm, họ có thể đã thoát nạn.

Thế nhưng không ai đội mũ bảo hiểm, ngay cả những nhà vật lý trị liệu và bác sĩ Việt Nam - những người hàng ngày điều trị cho bệnh nhân chấn thương sọ não.

Chúng tôi nhận ra rằng, mặc dù mũ bảo hiểm có giá khá rẻ theo tiêu chuẩn Mỹ, nhưng đối với nhiều người Việt Nam, đó vẫn là một khoản chi phí lớn. Hơn nữa, rõ ràng là không ai muốn trở thành người duy nhất đội mũ bảo hiểm trên đường.

Cuối thời gian tình nguyện, chồng tôi và tôi quyết định giải quyết cả hai vấn đề đó bằng cách cung cấp mũ bảo hiểm miễn phí cho tất cả nhân viên của trung tâm phục hồi chức năng. Các nhân viên tỏ ra rất vui mừng, và giám đốc trung tâm thậm chí còn tuyên bố rằng từ nay, ông sẽ yêu cầu toàn bộ nhân viên đội mũ bảo hiểm khi đi làm.

Chúng tôi cũng phát sách hướng dẫn mà chúng tôi tự biên soạn từ các bài báo trên internet, được dịch sang tiếng Việt, để giúp các chuyên gia phục hồi chức năng giải thích rõ hơn với cộng đồng về lý do “Tại sao chúng tôi đội mũ bảo hiểm.” Trong phần còn lại của thời gian ở Đà Nẵng, chúng tôi thấy nhân viên trung tâm đều đội mũ bảo hiểm khi đi làm.

Chúng tôi đã nghĩ rằng mình đã tìm ra chìa khóa để thay đổi thói quen đội mũ bảo hiểm ở Việt Nam: chỉ cần cung cấp mũ bảo hiểm, những lập luận thuyết phục và một chút hỗ trợ từ cộng đồng.

Nhưng một năm sau, khi chúng tôi quay lại trung tâm đó ở Đà Nẵng, bạn có biết có bao nhiêu trong số 60 nhân viên vẫn còn đội mũ bảo hiểm không?

Không một ai. Hoàn toàn không một ai - kể cả giám đốc trung tâm.

“Chuyện gì đã xảy ra vậy?” tôi hỏi. “Mũ bảo hiểm đâu rồi?”

“Mũ vẫn ở nhà,” họ trả lời. “Chúng tôi chỉ đội khi đi trên Quốc lộ 1, nơi bắt buộc phải đội mũ bảo hiểm.”

Chà, điều đó thực sự đáng thất vọng.

Vào đầu năm 2007, chúng tôi đã thiết lập một mối quan hệ hợp tác với một bệnh viện phục hồi chức năng khác – lần này là một cơ sở trực thuộc Sở Y tế Đà Nẵng. Trùng hợp thay, năm 2007 cũng được chọn là Năm An toàn Giao thông tại Việt Nam. Trong quá trình làm việc, hướng dẫn các kỹ thuật viên vật lý trị liệu và sinh viên ngành vật lý trị liệu tại bệnh viện phục hồi chức năng này, thật khó để bỏ qua thực tế rằng hơn một nửa số bệnh nhân ở đây là nạn nhân của tai nạn xe máy, nhiều người trong số họ bị chấn thương sọ não nghiêm trọng. Tôi yêu thích thử thách điều trị bệnh nhân thần kinh, nhưng rõ ràng là tôi và đội ngũ kỹ thuật viên vật lý trị liệu còn non trẻ ở Việt Nam không bao giờ có thể theo kịp dòng bệnh nhân chấn thương sọ não mới nhập vào các bệnh viện mỗi ngày. Vì vậy, chúng tôi quyết định thử một lần nữa với vấn đề đội mũ bảo hiểm.

Lần này, chúng tôi tiếp cận Sở Y tế Đà Nẵng với đề xuất rằng tổ chức của chúng tôi, Steady Footsteps, sẽ cung cấp miễn phí mũ bảo hiểm cho toàn bộ nhân viên của Sở nếu Sở Y tế bắt buộc họ phải sử dụng. Họ đồng ý. Với rất nhiều sự chú ý của công chúng, cùng với ba đoàn làm phim truyền hình ghi hình, tôi và phiên dịch viên của mình đã phát biểu trước một hội nghị gồm 80 cán bộ quản lý của Sở Y tế. Chúng tôi nói về thảm kịch chấn thương sọ não đang diễn ra ở Việt Nam. Chúng tôi nhấn mạnh rằng vai trò lãnh đạo của họ là rất quan trọng để đảm bảo sự an toàn cho nhân viên. Và chúng tôi cũng đề cập đến tiềm năng của những nhân viên đội mũ bảo hiểm sẽ trở thành tấm gương tích cực cho cộng đồng.

Kế hoạch đã thành công – nhưng chỉ ở một mức độ nhất định. Tất cả 3.401 nhân viên đã nhận được những chiếc mũ bảo hiểm màu xanh nhạt, phù hợp với khí hậu nhiệt đới, có in logo của Sở Y tế ở hai bên. Các bảo vệ tại cổng của 26 cơ sở trực thuộc Sở Y tế Đà Nẵng không cho phép nhân viên ra vào nếu không đội mũ bảo hiểm. Nhân viên đội mũ bảo hiểm – ngay cả khi đi chợ. Và nhờ sự đưa tin của truyền hình, bao gồm các cuộc phỏng vấn với chính các nhân viên và hình ảnh logo nhận diện trên mũ, họ đã trở thành một nhóm người đội mũ bảo hiểm có uy tín và dễ nhận biết. Tuy nhiên, việc đội mũ bảo hiểm vẫn chưa lan rộng ra toàn bộ dân số.

Tuy nhiên, vào cuối năm đó, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành một Nghị định[1] bắt buộc đội mũ bảo hiểm trên toàn quốc. (Những tổ chức như Quỹ Phòng chống Chấn thương Châu Á đã thúc đẩy sáng kiến này trong nhiều năm, vì vậy tôi chắc chắn không nhận công lao của mình cho bước tiến này.) Quy định đội mũ bảo hiểm bắt buộc được áp dụng trên các tuyến đường liên tỉnh từ ngày 1 tháng 11 và luật yêu cầu đội mũ bảo hiểm toàn diện – bao gồm cả trong thành phố – được lên kế hoạch thực thi vào ngày 15 tháng 12 năm 2007. Các đài truyền hình phát sóng các thông điệp tuyên truyền cộng đồng, bao gồm những câu chuyện xúc động và những thước phim chân thực, kêu gọi mọi người tự bảo vệ mình bằng cách đội mũ bảo hiểm. Ngay khi luật có hiệu lực trên các tuyến đường liên tỉnh, các bản tin buổi tối liên tục chiếu cảnh chặn xe của cảnh sát, phỏng vấn những người vừa bị bắt và bị phạt – và nếu họ không mang theo giấy đăng ký xe, xe máy của họ sẽ bị tịch thu. Điều đó thu hút sự chú ý của mọi người. Chỉ sau một đêm, mọi người bắt đầu đội mũ bảo hiểm mỗi khi đi xa. Tuy nhiên, trong thành phố, chỉ có nhân viên Sở Y tế và những người từ ngoại ô đến là đội mũ bảo hiểm. Bạn có thể thấy cảnh sát làm rất tốt trong việc thực thi luật đội mũ bảo hiểm trên một số tuyến đường chính bên ngoài thành phố, nhưng thật khó để tưởng tượng họ có thể làm cách nào để thuyết phục người dân trong thành phố tuân thủ luật.

Nhưng họ đã làm được. Vào ngày 14 tháng 12 năm 2007, chưa đến 5% người đi xe máy trong thành phố đội mũ bảo hiểm. Vào sáng ngày 15 tháng 12 năm 2007, con số đó đã vượt quá 95%. Những người "quên" đội mũ nhanh chóng bị chặn lại bởi các trạm kiểm soát giao thông được thiết lập khắp thành phố.

Bây giờ, hơn một tháng sau, cảnh sát không còn phải làm việc ngoài giờ và tin tức đã chuyển sang những vấn đề khác. Nhưng mọi người vẫn tiếp tục đội mũ bảo hiểm. Nếu trước đây việc đội mũ bảo hiểm được xem là một điều kỳ quặc đáng chế nhạo, thì bây giờ nó đã trở thành “bình thường”. Một người không đội mũ bảo hiểm giờ đây bị coi là “kẻ liều lĩnh”. Các ca chấn thương sọ não mới trở nên ít phổ biến hơn, nhưng các phòng khám ngoại trú đang tiếp nhận một nhóm bệnh nhân mới – những người bị ngã xe khi đã đội mũ bảo hiểm. Thay vì nằm trong nhà xác hoặc đơn vị chấn thương sọ não, họ đang được điều trị chứng “chấn thương cổ” – một chẩn đoán có tiên lượng tốt hơn rất nhiều.

Vậy bài học rút ra từ câu chuyện này là gì? Đơn giản thôi: thay đổi hành vi trên quy mô lớn đòi hỏi những nỗ lực phối hợp trên quy mô lớn, ngay cả khi không có sự phản đối nào. Ở Việt Nam, không có tập đoàn lớn nào hưởng lợi hay bị ảnh hưởng bởi việc đội mũ bảo hiểm toàn dân. Không có áp lực kinh tế nào tác động đến chính phủ theo hướng này hay hướng khác. Dịch vụ y tế ở Việt Nam chủ yếu là tự chi trả, và chính phủ không có hỗ trợ đáng kể nào cho các gia đình bị ảnh hưởng bởi cái chết hoặc tàn tật do tai nạn giao thông. Thực tế về chấn thương sọ não đã quá rõ ràng, vậy mà mọi người vẫn không thể tự giác làm một điều đơn giản như đội mũ bảo hiểm. Phải có sự kết hợp của lãnh đạo chính trị, thực thi pháp luật, truyền thông, và cả công tác chuẩn bị từ trước của một tổ chức phi chính phủ sẵn sàng đầu tư vào việc thiết kế và sản xuất mũ bảo hiểm khi chưa có thị trường cho nó. Tất cả những điều đó đã tạo nên một thành công "chỉ sau một đêm". Nhưng điều quan trọng cần nhận ra là ở đây KHÔNG có sự phản đối nào đối với việc đội mũ bảo hiểm hay luật đội mũ bảo hiểm – và ngay cả như vậy, việc tạo ra sự thay đổi vẫn vô cùng khó khăn.

Vậy, nếu có một thế lực mạnh mẽ và có tổ chức chống lại nỗ lực của chúng ta thì sao?

Ở Mỹ, lựa chọn thay đổi trên quy mô lớn không phải là điều có thể thực hiện được đối với những ai muốn xã hội của chúng ta đi theo hướng tiến bộ hơn. Truyền thông và chính phủ Mỹ hợp tác để gạt ra ngoài lề hoặc thậm chí làm cho những tác nhân tiềm năng của sự thay đổi trở nên vô hình. Vậy thì hãy cứ như vậy. Hãy trở thành những người “thay đổi từ bên dưới” theo đúng nghĩa: hãy biến đổi xã hội từ nền tảng. Hãy bắt đầu công việc khó khăn là xây dựng tình bạn chân thành, cộng đồng hỗ trợ, mạng lưới thực phẩm địa phương và các nhóm tương trợ – những điều sẽ bảo vệ và nâng đỡ chúng ta khi nền kinh tế dầu mỏ, hệ thống tín dụng, chủ nghĩa đế quốc và chính phủ do tập đoàn thao túng ngày càng trở nên không còn phù hợp với cuộc sống của chúng ta.


[1] Nghị quyết số 32/2007/NĐ-CP ngày 29/6/2007 của Chính phủ và các công điện chỉ đạo thực hiện của Thủ tướng Chính phủ, từ ngày 15/12/2007 người đi mô tô, xe gắn máy bắt buộc đội mũ bảo hiểm trên tất cả các tuyến đường (không có ngoại lệ).

19.1.08

TIN XẤU

 Bạn sẽ chết.

Tôi không biết bạn sẽ chết ở đâu và khi nào. Tôi chưa từng xem hồ sơ y tế của bạn, nhưng tôi có thể khẳng định chắc chắn rằng: “Bạn sẽ chết.”

Việc bạn có đủ điều kiện hưởng Medicare[1] hay Medicaid[2] không quan trọng. Việc bạn đã đóng đầy đủ phí bảo hiểm hay chưa cũng không quan trọng. Thậm chí, ngay cả khi bạn chưa từng bị ốm một ngày nào trong đời - điều đó cũng không quan trọng.

Bạn vẫn sẽ chết.

Dù các nhà quản lý quỹ đầu tư thường cảnh báo rằng: “Hiệu suất trong quá khứ không đảm bảo kết quả trong tương lai,” tôi vẫn tin vào lịch sử và khoa học trong trường hợp này -mọi người cuối cùng đều chết.

Vậy thì khi có người nói: “Tôi rất muốn nghỉ việc để theo đuổi ước mơ - nhưng tôi không thể, vì tôi sẽ mất bảo hiểm y tế,” họ đang thực sự nghĩ gì?

Tôi nghĩ mối bận tâm thực sự của họ là: Ai sẽ chăm sóc tôi nếu tôi không thể tự chăm sóc bản thân? Và câu trả lời của tôi là - chắc chắn không phải công ty bảo hiểm y tế của bạn!

Hệ thống chăm sóc y tế ở Mỹ hiện nay được tổ chức và vận hành theo các điều kiện do Medicare và các công ty bảo hiểm y tế lớn đặt ra. Rất, rất khó để được nhập viện. Các bệnh viện chỉ tiếp nhận một tỷ lệ nhỏ trong số những người bệnh và người bị thương đi qua cửa phòng cấp cứu của họ. Hầu hết các ca phẫu thuật ngày nay đều được thực hiện dưới dạng ngoại trú. Áp lực từ các quy định về chi trả khiến các bệnh viện buộc phải cho bệnh nhân xuất viện nhanh nhất có thể. Vì vậy, thực tế là ngay cả khi bạn bị bệnh nặng hoặc bị thương nặng, bạn vẫn có thể phải dành phần lớn, nếu không muốn nói là toàn bộ, thời gian hồi phục của mình trên một chiếc giường bệnh được đặt ngay trong phòng ăn nhà bạn, bởi khả năng cao là bạn sẽ bị xuất viện trước khi đủ khỏe để leo lên cầu thang về phòng ngủ của mình. Nếu bạn thuê xe cứu thương đưa bạn lên tầng trên, bạn sẽ bị mắc kẹt ở đó trong khi vợ/chồng bạn tất tả chạy lên chạy xuống với bữa ăn của bạn. Nếu may mắn, Medicare hoặc bảo hiểm của bạn sẽ chi trả cho một dịch vụ y tế tại nhà để cử y tá đến vài lần một tuần hướng dẫn vợ/chồng bạn cách thay băng sau phẫu thuật, hoặc một chuyên viên trị liệu hướng dẫn bạn cách lết đến bô vệ sinh và tự tắm rửa. Điều đó sẽ rất khó khăn cho vợ/chồng bạn, vì họ sẽ cảm thấy tội lỗi khi để bạn một mình mỗi khi phải ra ngoài mua thuốc hoặc đi chợ. Có thể lần này bạn sẽ hồi phục hoàn toàn, nhưng đến một lúc nào đó, bạn sẽ suy yếu dần cho đến khi tử vong. Vậy ai sẽ chăm sóc bạn khi về già?

Sẽ là vợ/chồng của bạn, người cũng đang già đi như bạn? Sẽ là con cái của bạn? (Đó là lựa chọn mà hầu hết mọi người ở các nước đang phát triển tin tưởng.) Ngay cả những đứa con trưởng thành có hiếu nhất ở Mỹ cũng gặp khó khăn lớn khi bố mẹ họ cần được chăm sóc, bởi vì bản thân họ cũng bị ràng buộc bởi trách nhiệm tài chính và gia đình riêng của mình. Bạn có thể trả tiền túi để thuê một điều dưỡng riêng. Nhưng bạn có thể duy trì điều đó trong bao lâu trước khi tài chính cạn kiệt?

Khi vợ chồng tôi quyết định nghỉ việc, rời khỏi nước Mỹ và chuyển đến Việt Nam để làm công việc tình nguyện, một trong những quyết định chúng tôi đưa ra là từ bỏ bảo hiểm y tế. Đây không phải là quyết định mà chúng tôi đưa ra một cách nhẹ nhàng; trước đây, chúng tôi chưa bao giờ tự nguyện sống mà không có bảo hiểm.

Chúng tôi đã suy nghĩ rất kỹ về tình huống này: Chúng tôi có thể chi trả cho dịch vụ y tế giống như bất kỳ người Việt Nam nào khác. Dù không phải là “chất lượng hàng đầu”, nhưng cũng không tệ. Chúng tôi thà đóng góp trực tiếp cho hệ thống y tế Việt Nam bằng cách tự chi trả cho dịch vụ chăm sóc sức khỏe của mình, còn hơn là tiếp tục trả tiền cho các công ty bảo hiểm tư nhân.

Chúng tôi đã chọn chuyển đến Việt Nam khi cả hai vẫn còn ở độ tuổi 50 và đủ khỏe để có thể làm được những công việc có ý nghĩa tại đây. Chúng tôi hy vọng rằng khi sức khỏe suy giảm và không còn làm được nhiều nữa, thì những gì chúng tôi đã tích lũy được - cả về tài chính lẫn thiện chí từ cộng đồng - sẽ giúp chúng tôi tìm được người chăm sóc và có thể hỗ trợ họ về mặt tài chính. Đó là một kế hoạch khá mơ hồ -và chúng tôi không dành quá nhiều thời gian để lo nghĩ về nó - nhưng chính suy nghĩ đó đã giúp chúng tôi hình dung ra một cuộc sống mà trong đó, “giữ bảo hiểm y tế” không phải là mục tiêu tối thượng.

Không còn nghi ngờ gì nữa - bạn sẽ chết.

Câu hỏi đặt ra là: Bạn có thực sự sống không?



[1] Medicare là bảo hiểm y tế liên bang dành cho bất kỳ ai từ 65 tuổi trở lên và một số người dưới 65 tuổi mắc một số khuyết tật hoặc tình trạng bệnh lý nhất định.

[2] Medicaid là chương trình chung của liên bang và tiểu bang cung cấp bảo hiểm y tế cho một số người có thu nhập và nguồn lực hạn chế.

17.1.08

KHÔNG CÓ CHỖ CHẠY, KHÔNG CÓ CHỖ TRỐN

 

Nhìn lại bây giờ, tôi nghĩ đó là khoảng 3 giờ sáng ngày 26 tháng 9 năm 1985, khi tôi nằm trên sàn Trung tâm Hội nghị Virginia Beach, nhìn chằm chằm vào mặt dưới của một chiếc bàn gấp, thì chồng tôi và tôi quyết định chuyển đến nơi cao hơn. Ngày hôm trước, chúng tôi đã dành cả ngày để đóng ván ép lên cửa sổ, dọn sạch kệ, tủ quần áo, tủ bếp và chất chồng đồ đạc bọc nệm, thảm, quần áo, sách vở, công cụ lên trên quầy, bàn và ghế gỗ, cố gắng bảo vệ chúng khỏi nước lũ theo như dự báo.

Cơn bão Gloria, vào thời điểm đó được mô tả là "Cơn bão của Thế kỷ", đang xoáy ngoài khơi và được dự đoán sẽ tấn công trực tiếp vào Virginia Beach vào sáng ngày 26. Ngôi nhà của chúng tôi nằm trong một khu ngoại ô, chỉ cách biển Đại Tây Dương hai dãy nhà, trên vùng đất thấp. Một cư dân lâu năm nói với chúng tôi rằng trong cơn bão nổi tiếng Ash Wednesday vào năm 1962, nước lũ đã dâng đến tận tay nắm cửa nhà chúng tôi. Chúng tôi có bảo hiểm lũ lụt, nhưng khi đọc kỹ các điều khoản trong lúc đài radio phát cảnh báo bão, chúng tôi nhận ra rằng hợp đồng bảo hiểm chỉ chi trả theo "giá trị khấu hao" của tài sản trong nhà. Giá trị khấu hao của một chiếc TV 10 năm tuổi, sách 20 năm tuổi và ghế sofa 30 năm tuổi không hề tương đương với giá trị thay thế. Vì vậy, chúng tôi đã lao vào một cuộc chạy đua tám giờ liền để xếp, cất và gia cố đồ đạc.

Cuối cùng, chúng tôi quyết định “chơi an toàn” và chuyển đến vùng đất cao hơn - rất cao hơn - ở Thung lũng Shenandoah, cách bờ biển 200 dặm. Trớ trêu thay, sáu tuần sau khi cơn bão Gloria đổi hướng, bỏ qua Virginia Beach để tấn công Long Island, một cơn bão khác hình thành sau bão Juan đã tàn phá Tây Virginia và một phần miền tây Virginia, bao gồm cả Thung lũng Shenandoah. Khi chúng tôi đến nơi vào mùa xuân năm sau, thứ đầu tiên chào đón chúng tôi là cảnh tượng một căn nhà hai tầng vẫn còn mắc kẹt trên một cây sồi lớn, lơ lửng trên sông Middle - nơi nước lũ đã cuốn nó lên từ vài tháng trước.

Chúng tôi tìm được căn nhà trong mơ - một ngôi nhà cổ trăm năm tuổi cần sửa chữa - tọa lạc trên đỉnh một ngọn đồi, xung quanh là đồng quê xanh mướt, với dãy núi Blue Ridge về phía đông và dãy Appalachians về phía tây. Không có vùng nước lớn nào trong tầm mắt. Cuối cùng cũng an toàn, chúng tôi nghĩ vậy.

Thế nhưng, chúng tôi đã vô cùng ngạc nhiên khi một cơn lốc xoáy quét qua thị trấn Augusta Springs gần đó. Nó hất tung một nhà thờ gỗ trăm năm tuổi ra khỏi nền móng, rồi nhảy qua một ngọn đồi và xé nát một chiếc xe moóc, chỉ để lại vài mảnh nhôm và lớp cách nhiệt rách nát. Tôi nói chuyện với một người hàng xóm lớn tuổi và bình luận rằng một cơn lốc xoáy xuất hiện ở khu vực này hẳn là rất hiếm. Ông gật đầu đồng ý, nhưng nói thêm rằng cơn lốc cuối cùng mà ông nhớ đã từng quét qua đồng cỏ của ông trước khi giật tung ngọn của một trong những cây sồi khổng lồ che bóng ngôi nhà chúng tôi.

"Ồ," tôi nuốt nước bọt, "tôi để ý thấy có ba cây sồi bị gãy ngọn. Chắc là chúng đều bị ảnh hưởng trong cùng một cơn lốc đó?"

"Ồ không," ông trả lời. "Cơn lốc chỉ hạ được một cây thôi. Hai cây còn lại bị sét đánh."

Một ngày nọ, chúng tôi nhận được tin rằng ngôi nhà của bạn tôi, Lucy, đã cháy rụi. Chồng tôi và tôi liền mang theo xà beng đến giúp cô ấy dọn dẹp và tìm kiếm những vật dụng còn sót lại.

"Không," Lucy nói, khi chúng tôi đến và nhìn thấy đống tro tàn đen kịt. "Anh chị không hiểu đâu - không còn gì để di chuyển cả."

Ngôi nhà lớn, vững chắc của cô ấy - giống như nhà của chúng tôi - được xây dựng bằng gỗ dẻ, một loại gỗ cứng đã qua trăm năm khô ráo. Anh chị không thể tìm được loại củi nào tốt hơn thế để đốt lửa đâu.

Hai mươi mốt năm sau cuộc chạm trán với bão Gloria, chúng tôi lại đi qua mắt bão của cơn bão Xangsane tại ngôi nhà hiện tại của mình ở Đà Nẵng, Việt Nam, chỉ cách Biển Đông hai dãy nhà. Chúng tôi bình an vô sự, nhưng thành phố Đà Nẵng thì hầu như bị tàn phá nặng nề. Cơn bão đã giật tung một phần hoặc toàn bộ mái nhà của nhiều người. Những cây cổ thụ đứng dọc các đại lộ trung tâm bị bật gốc; cành cây gãy và dây điện đổ chắn ngang hầu hết các con đường.

Thế nhưng, ngay khi những cơn gió bắt đầu lặng dần vào tối Chủ nhật hôm đó, người dân Đà Nẵng đã ra đường, thu nhặt những tấm tôn bị gió cuốn đi và sửa lại mái nhà. Những người tháo vát nhanh chóng chặt và dọn dẹp những cây đổ, chỉ để lại lá và những nhánh cây nhỏ nhất cho xe rác của thành phố thu gom. Điện được khôi phục chỉ sau vài ngày.

Chưa đầy hai tuần sau, một cơn bão khác lại lởn vởn ngoài khơi. Người dân Đà Nẵng vội vã mua bao tải, rồi kéo nhau ra bãi biển. Họ xúc cát đổ đầy bao tải và vác lên mái nhà để đảm bảo rằng những mái tôn vừa sửa xong không bị gió cuốn đi nữa. Cơn bão thứ hai đã bỏ qua Đà Nẵng, nhưng những bao cát vẫn còn nguyên trên mái cho đến khi chúng mục nát và cát từ từ rơi xuống đất sau nhiều tháng trời.


Năm nay, thay vì bão, miền Trung Việt Nam phải hứng chịu một loạt những trận mưa cực kỳ lớn. Tôi đang nói về những cơn mưa kéo dài nhiều ngày liền, mưa xối xả theo phương ngang, thấm xuyên qua cả tường gạch! Hệ thống thoát nước ở trung tâm Đà Nẵng nhìn chung hoạt động khá tốt - chắc chắn là tốt hơn nhiều so với khu phố cũ của tôi ở Virginia Beach. Sông Hàn tràn bờ, nhấn chìm đường Bạch Đằng trong một ngày. Phố cổ Hội An cũng bị ngập, như mọi năm. Nhưng ngay khi nước rút, các cửa hàng được lau dọn sạch sẽ, hàng hóa được bổ sung, và công việc buôn bán lại tiếp tục.

Hai ngày sau khi nước lũ tràn qua một khu dân cư ở ngoại ô Đà Nẵng, có nơi ngập đến gần 2 mét trong nhà, tôi đi qua đó và thấy những ngôi nhà vừa được chà rửa sạch sẽ, chiếu ngủ treo lên phơi khô, và người dân ngồi nhâm nhi cà phê trong các quán nhỏ ven đường.

Người bạn trẻ của tôi, Miêng, kể rằng ngôi nhà của bà cô ấy đã bị cuốn trôi trong trận lũ vừa rồi. Bà của cô sống trong một căn chòi tre ven sông ở tỉnh Quảng Ngãi.

“Trời ơi!” tôi thốt lên. “Bây giờ bà sẽ làm gì?”

“Bà sẽ làm như mọi năm thôi,” Miêng nói. “Ở tạm trong nhà cộng đồng đến khi nước rút rồi lại dựng lại nhà tre với sự giúp đỡ của hàng xóm. Ba em muốn bà chuyển đến Đà Nẵng sống với gia đình em, nhưng bà thích ở lại Quảng Ngãi với bạn bè, làng xóm hơn.”

Bạn tôi, Tâm, kể rằng khi cô ấy còn nhỏ ở Đà Nẵng, trước chiến tranh, tất cả những ngôi nhà trong khu phố của cô đều làm bằng tre. Một ngày nọ, một trận hỏa hoạn quét qua và thiêu rụi toàn bộ. Trong suốt một năm rưỡi sống ở Đà Nẵng, tôi chưa từng thấy một chiếc xe cứu hỏa nào - nhưng tôi cũng chưa từng thấy một ngôi nhà nào bị cháy.

Nhà cửa ở Đà Nẵng bây giờ đều xây bằng gạch và xi măng - chống được cả hỏa hoạn lẫn lũ lụt. Tường là tường gạch đặc; sàn nhà là gạch men lát trên nền bê tông. Không có thảm, không có tường thạch cao, không có lớp cách nhiệt. Nếu mái nhà bị gió bão thổi bay, người ta lợp lại. Nếu sàn nhà bị ngập nước, họ lau dọn. Nếu tường bị ướt... thì nó sẽ bị mốc.

Liệu chúng ta có thể ngăn chặn những hậu quả thảm khốc của biến đổi khí hậu toàn cầu không? Có thể có, mà cũng có thể không. Nhưng ngay cả khi không có biến đổi khí hậu, những điều tồi tệ vẫn xảy ra. Luôn luôn là vậy và mãi mãi là vậy. Không có nơi nào thực sự an toàn cả. Bảo hiểm và công nghệ hiện đại không phải là những cách duy nhất để đối phó với một thế giới đầy bất trắc. Có rất nhiều điều để học hỏi từ những nền văn hóa đã có truyền thống kiên cường vượt qua bão tố và gian nan.

 

Một cây sậy mềm mại có thể sống sót qua cơn bão mà một cây sồi hùng vĩ lại bị quật ngã.

12.1.08

SỐNG TRONG THẾ GIỚI VẬT CHẤT

 

Tôi trở về Mỹ từ Việt Nam vào năm 1996 với hai đứa con nuôi và một góc nhìn hoàn toàn khác. Hồi đó, gia đình tôi sống trên một trang trại nhỏ ở thung lũng Shenandoah, bang Virginia, và chúng tôi đang cố gắng hướng tới một lối sống bền vững. Trong suốt mười năm trước đó, vợ chồng tôi đã làm việc không ngừng nghỉ để biến một căn nhà nông thôn xập xệ và 13 mẫu đất hoang thành trang trại trong mơ của mình.

Trang trại nhỏ của chúng tôi có hai khu vườn lớn, một đàn gà nhỏ, cừu, dê, lợn, hai con bò sữa và một con ngựa mà chúng tôi đang cố gắng - dù không mấy thành công - huấn luyện để kéo xe. Chúng tôi chắc chắn là ăn uống rất đầy đủ, nhưng do không thể tránh khỏi thực tế của hệ thống phân phối thực phẩm ở Mỹ, trang trại của chúng tôi vẫn liên tục cần những khoản tiền mặt để mua các vật dụng cần thiết trong khi chúng tôi chỉ có thể bán sản phẩm nông trại với giá sỉ. Điều này khiến chúng tôi thấy khó khăn và bất công, nhưng sự phi lý trong cách suy nghĩ của mình chỉ thực sự lộ rõ sau chuyến đi đầu tiên đến Việt Nam.

Ở thành phố Nha Trang, nơi chúng tôi ở trong thời gian chờ hoàn tất thủ tục giấy tờ cho các con, những đàn bò nhỏ nhớn nhơ gặm cỏ bên lề đường. Ý tưởng xây hàng rào để gia súc có một cánh đồng riêng để ăn và… đi vệ sinh bắt đầu trở nên kỳ quặc khi tôi thấy những ông lão hì hục hốt phân bò từ mặt đường để bán làm phân bón. Ở đây, hầu hết cây xanh trong thành phố đều là dừa và thường cho trái để thu hoạch. Ở quê nhà, chúng tôi đã phải đổi sang một chiếc xe bán tải lớn hơn để dễ dàng chở gia súc ra chợ bán. Nhưng ở Việt Nam, những con lợn trưởng thành có thể đi đến lò mổ trên những chiếc xe đạp thồ hoặc xe máy, được chở gọn trong một cái rọ.

Những ngôi nhà ở Việt Nam, giống như nhà ở Mỹ trước năm 1900, hiếm khi có tủ quần áo. Tôi mất một lúc mới nhận ra rằng, nếu bạn chỉ có hai bộ quần áo - một bộ để giặt và một bộ để mặc - thì bạn thực sự không cần đến tủ. Tôi đã dành rất nhiều thời gian và công sức để học cách kéo sợi và dệt len từ lông cừu của trang trại mình để làm thảm trải sàn, bảo vệ lớp gỗ bóng loáng trong căn nhà nông trại đã được tu sửa lại. Trong khi đó, người Việt Nam chỉ đơn giản là dùng cây lau nhà ướt để lau sàn gạch men sản xuất trong nước - và thế là xong.

Một ngày nọ, một người bạn rủ tôi đi chợ trung tâm Nha Trang trên chiếc xe máy mà cô ấy dùng chung với tám thành viên trong gia đình. Tôi vẫn còn run rẩy sau lần đầu tiên tiếp xúc với giao thông Việt Nam ở TP.HCM, nhưng cũng đội mũ bảo hiểm xe đạp rồi leo lên xe. Đi được vài cây số - khi tôi vừa bắt đầu thấy bớt lo lắng - thì xe tắt máy. Hết xăng, mà xung quanh chẳng có trạm xăng nào! Không nói một lời, bạn tôi dắt xe vào lề, nơi một bà cụ đang ngồi sau chiếc bàn gỗ cũ kỹ. Cô ấy lấy ra vài ngàn đồng và mua một vỏ chai Jim Beam[1] đựng đầy xăng, đổ vào bình, rồi đưa chai rỗng lại cho bà cụ. Chưa đầy hai phút sau, chúng tôi lại lên đường.

Ở chợ, chúng tôi mua được mười chiếc bát ăn cơm bằng sứ với giá chỉ một đô la Mỹ - trong khi một chai nước súc miệng Scope phủ đầy bụi lại có giá quá đắt vì hành trình của nó kéo dài nửa vòng trái đất, khiến tôi cảm thấy không đáng để mua. Trong các quán ăn không có khăn giấy - nhưng lại có nước đóng chai. Vì sao? Bởi dù hầu hết các khu vực ở Việt Nam đều có nước máy, nhưng nước không đạt tiêu chuẩn để uống trực tiếp. Đó là lý do trà, nước đóng chai và - vâng - bia rất phổ biến. Điều này có vẻ lạc hậu đối với người Mỹ. Nhưng hãy nghĩ mà xem - có hợp lý không khi người Mỹ dùng nước tinh khiết để giặt giũ, tưới vườn và xả bồn cầu? Câu trả lời phụ thuộc vào góc nhìn của bạn, phải không?

Mười hai năm sau, người dân thành thị ở Việt Nam có nhiều cơ hội tiếp cận hàng tiêu dùng hơn và thu nhập trung bình cũng cao hơn. Ở Việt Nam, gầy gò thường đồng nghĩa với nghèo khó; ngày nay, một số người sống ở thành phố thậm chí còn hơi mũm mĩm. Nhiều gia đình có nhiều hơn một chiếc xe máy, và một số người siêu giàu thậm chí còn có ô tô. Quần jeans sản xuất hàng loạt, áo thun và giày cao gót đã thay thế áo dài truyền thống trong thời trang phụ nữ. Hầu như con phố nào cũng có quán internet.

Tuy vậy, bạn vẫn rất khó tìm thấy một người Việt nào để đèn sáng trong căn phòng trống. Bạn sẽ không bao giờ thấy một chiếc quạt chạy mà không có ai - thường là khách - ngồi trước nó. Những cốc nước uống dở không bị đổ xuống bồn rửa mà được tưới vào cây. Ở Việt Nam, dừa có thể mọc trên cây, nhưng tiền thì không - và mọi người hành xử theo đúng thực tế đó.

[1] Rượu Jim Beam được sản xuất từ 75% là Bắp (Ngô), 25% là lúa mạch và nước suối của vùng Bourbon, Kentucky, Mỹ.