7.6.09

TÁI HÌNH DUNG VỀ PHỤC HỒI CHỨC NĂNG Ở VIỆT NAM

 

Trong khi công nghệ y tế tại Việt Nam đã tiến vào thế kỷ 21 với các ca phẫu thuật bắc cầu động mạch vành, thay khớp háng toàn phần và thụ tinh trong ống nghiệm hiện đã có sẵn cho những ai có đủ khả năng chi trả, thì phục hồi chức năng vẫn còn mắc kẹt đâu đó vào những năm 1950. Chính bản thân tôi đã học vật lý trị liệu chỉ mới ba mươi lăm năm trước tại Mỹ, nhưng nhận định này lại được đưa ra bởi một người New Zealand, người thực sự đã trở thành một nhà trị liệu vào năm 1950:

“Tình huống mà bạn mô tả nghe giống hệt New Zealand khi tôi mới bắt đầu trở thành nhà trị liệu. Đừng lo,” bà ấy nói, “người Việt Nam rồi sẽ dần dần tìm ra cách giải quyết, cũng như chúng tôi đã làm trong suốt năm mươi năm qua.”

Đó có vẻ là một viễn cảnh khá ảm đạm đối với 86 triệu người dân đang sinh sống tại Việt Nam ngày nay, phải không?

Ở Mỹ hiện nay, Hiệp hội Vật lý Trị liệu Hoa Kỳ khuyến nghị rằng những người mới bước vào ngành vật lý trị liệu nên được đào tạo ở trình độ tiến sĩ. Tuy nhiên, các chương trình do USAID tài trợ, như Health Volunteers Overseas (HVO), vẫn thường xuyên cử các tình nguyện viên người Mỹ và Canada đến Việt Nam trong khoảng thời gian từ hai đến bốn tuần để hướng dẫn lâm sàng cho các sinh viên tốt nghiệp từ các trường kỹ thuật Y Dược chuyên ngành vật lý trị liệu hệ trung cấp (2 năm). Ngay cả khi không cần xem xét kỹ kết quả của chương trình này - mà tôi có thể đảm bảo rằng chúng rất kém - liệu có ai thực sự tin rằng Việt Nam sẽ có thể “đuổi kịp” các tiêu chuẩn phục hồi chức năng được áp dụng ở những nơi khác trên thế giới không?

Lịch sử của Việt Nam và Mỹ gắn bó chặt chẽ với nhau theo những cách mà nhiều người Mỹ có lẽ muốn bỏ qua. Ngay cả khi Việt Nam đang dần thoát khỏi cảnh đói nghèo cùng cực và sự cô lập của những thập kỷ u ám do lệnh cấm vận của Mỹ áp đặt, thì một phần của lịch sử chung đó vẫn để lại những di sản méo mó cho tương lai.

Đáng chú ý nhất, Việt Nam bị cô lập bởi rào cản ngôn ngữ. Khi xem xét rằng phần lớn những người nói tiếng Anh trôi chảy ở Việt Nam từng thuộc về phe thua cuộc trong một cuộc nội chiến kéo dài và cay đắng, thì cũng không có gì ngạc nhiên khi họ sau đó bị loại khỏi hệ thống giáo dục và bộ máy nhà nước Việt Nam. Do đó, hiện nay có rất ít người ở Việt Nam thực sự thành thạo tiếng Anh - và những người đó chắc chắn không phải là các kỹ thuật viên vật lý trị liệu! Ngay cả những phiên dịch viên tốt nghiệp từ các chương trình đại học cũng có thể chưa từng tiếp xúc với người nước ngoài trước đây. Nếu một tình nguyện viên nước ngoài may mắn được phân công một phiên dịch viên có thể giao tiếp tiếng Anh tốt, thì những thuật ngữ mà các nhà vật lý trị liệu cần sử dụng lại không nằm trong chương trình giảng dạy tiếng Anh thông thường. Thực tế, thậm chí còn không có từ vựng tiếng Việt cho nhiều khái niệm mà chúng tôi cần diễn đạt. Vậy thì làm sao có thể mong đợi điều gì hiệu quả từ nỗ lực giao tiếp bất thành này?

Vật lý trị liệu tại Việt Nam không phải là một nghề có địa vị cao, cũng không phải là một nghề được trả lương cao. Chỉ 10% học sinh trung học hàng đầu ở Việt Nam mới được nhận vào đại học, và các kỹ thuật viên trị liệu này KHÔNG nằm trong số 10% đó! Việc đào tạo vật lý trị liệu tại Việt Nam chỉ bao gồm việc học một số “kỹ thuật” được xác định rõ ràng và sau đó thực hành chúng dưới sự giám sát hời hợt của những người cũng được đào tạo theo cách tương tự. Việc đánh giá và lập kế hoạch điều trị KHÔNG nằm trong chương trình đào tạo. Tương tự, các kỹ năng hỗ trợ di chuyển và tập đi cũng không được giảng dạy. Thế nhưng, các kỹ thuật viên sau khi hoàn thành chương trình đào tạo tối thiểu này lại tin rằng họ đã biết tất cả mọi thứ về vật lý trị liệu. Họ luôn tỏ ra lịch sự với các nhà trị liệu nước ngoài đến tình nguyện giảng dạy, nhưng những nhà trị liệu quay trở lại Việt Nam sau đó đều nhận thấy rằng những nỗ lực đào tạo của họ không để lại bất kỳ ảnh hưởng lâu dài nào. Điều quan trọng cần lưu ý là những người giám sát vật lý trị liệu cũng chỉ được đào tạo ở mức tối thiểu như các kỹ thuật viên khác, và họ xem nhiệm vụ của mình là đảm bảo rằng vật lý trị liệu tiếp tục được thực hành theo cách “đúng đắn”.

Một bạn sinh viên vật lý trị liệu có triển vọng nhất mà tôi từng làm việc cùng (người duy nhất hiểu được khái niệm tập đi) đã nói với tôi - thông qua một phiên dịch viên - như sau:

“Cô biết không, em thực sự thích những gì cô đang cố gắng dạy em. Em thấy rằng phương pháp này hiệu quả hơn nhiều so với những gì chúng em thường làm ở đây. Nhưng em phải nói rằng nếu em làm việc trong một bệnh viện ở Việt Nam và cố gắng áp dụng những điều này, em sẽ bị nhắc nhở. Và nếu em tiếp tục sử dụng kỹ thuật của cô, em sẽ bị mất việc.”



Câu nói đó khiến tôi sững sờ, bởi thật khó để hiểu được điều gì đang thực sự diễn ra khi bạn đứng ngoài cả ngôn ngữ lẫn văn hóa của một nơi. Nhưng bây giờ, hai năm sau, tôi biết rằng bạn sinh viên đó đã nói sự thật. Ngay cả sau hai năm làm việc liên tục tại một cơ sở, với một phiên dịch viên tận tâm, tôi cũng không thể thành thật nói rằng mình đã có thể tạo ra sự thay đổi đáng kể nào trong thực hành tại đó.

Mặt khác, gần đây tôi đã có cơ hội làm việc cùng hai nhà hoạt động trị liệu tình nguyện tại khoa phục hồi chức năng của một bệnh viện khác, dưới sự lãnh đạo năng động của hai bác sĩ có tư duy cởi mở. Những gì chúng tôi có thể đạt được ở đó chỉ trong vòng hai tháng thực sự đáng kinh ngạc. Hai bác sĩ đó - từ nhiều năm trước - đã từng nghiên cứu về phục hồi chức năng: một người từng tham gia tập huấn ở Israel và người kia thì ở Philippines. Họ sẵn sàng, nhiệt tình và có khả năng hỗ trợ cũng như triển khai các ý tưởng mới do các nhà trị liệu nước ngoài đưa vào. Nếu họ thực sự được đào tạo đầy đủ như các nhà trị liệu, họ đã tự thực hiện những thay đổi đó từ hơn mười năm trước.

Vậy đây là điều mà các bác sĩ tiên phong đó và tôi muốn đề xuất cho tương lai của ngành phục hồi chức năng tại Việt Nam:

Chúng tôi tin rằng các bác sĩ trẻ làm việc trong hệ thống nhà nước, có mối quan tâm đặc biệt đến phục hồi chức năng, nên được tạo điều kiện để theo học chương trình tiến sĩ hoặc thạc sĩ vật lý trị liệu tại Mỹ. (Tất nhiên, trước tiên họ sẽ cần học tiếng Anh trong một năm tại Mỹ để có thể đạt được kết quả tốt nhất trong quá trình học tập). Hiện nay, hầu hết các bệnh viện Việt Nam đều đã có đầy đủ đội ngũ kỹ thuật viên vật lý trị liệu với trình độ đào tạo tối thiểu, và họ sẽ giữ những vị trí đó cho đến khi nghỉ hưu, tức là vài thập kỷ nữa. Thực tế, các sinh viên mới tốt nghiệp còn gặp khó khăn khi tìm việc làm. Cố gắng thay đổi thực hành thông qua hệ thống đào tạo hiện tại là vô ích trong ngắn hạn, vì các kỹ thuật viên mới sẽ đứng dưới tất cả những người khác về thâm niên và không thể “phá vỡ hệ thống”. Tuy nhiên, nếu có các bác sĩ vật lý trị liệu người Việt Nam được đào tạo bài bản, họ có thể bước vào bất kỳ khoa vật lý trị liệu nào hiện có tại Việt Nam với kiến thức, kỹ năng và thẩm quyền để đảm bảo đáp ứng được dịch vụ phục hồi chức năng chất lượng tốt.

Ở Mỹ, có quan niệm rằng bất kỳ người Việt Nam nào khi có cơ hội vào Mỹ sẽ không bao giờ quay trở lại Việt Nam. Đây là một góc nhìn quá đơn giản, không hề tính đến việc cuộc sống ở Việt Nam gần đây đã thay đổi theo hướng tốt đẹp hơn như thế nào, cũng như việc sống trong vòng tay gia đình, văn hóa và ngôn ngữ của chính mình thoải mái ra sao. Các vị trí làm việc trong hệ thống nhà nước tại Việt Nam rất được săn đón, ngay cả khi mức lương của cả kỹ thuật viên vật lý trị liệu và bác sĩ còn thấp. Làm việc cho nhà nước đảm bảo sự ổn định về công việc, chăm sóc sức khỏe, bốn tháng nghỉ thai sản có lương, trợ cấp khuyết tật và lương hưu đầy đủ sau ba mươi năm (ở tuổi 55 đối với nữ và 60 đối với nam). Ngoài ra, các nhà trị liệu và bác sĩ thường mở các phòng khám tư nhân để bổ sung cho thu nhập từ lương nhà nước. Tôi đã sống ở Việt Nam ba năm qua và tôi không muốn sống ở nơi nào khác. Chi phí sinh hoạt thấp và nhịp sống ở đây rất, rất dễ chịu. Thật ngây thơ khi nghĩ rằng bất kỳ người Việt Nam nào cũng sẵn sàng từ bỏ một cuộc sống như vậy.