Trong khi công nghệ
y tế tại Việt Nam đã tiến vào thế kỷ 21 với các ca phẫu thuật bắc cầu động mạch
vành, thay khớp háng toàn phần và thụ tinh trong ống nghiệm hiện đã có sẵn cho
những ai có đủ khả năng chi trả, thì phục hồi chức năng vẫn còn mắc kẹt đâu đó
vào những năm 1950. Chính bản thân tôi đã học vật lý trị liệu chỉ mới ba mươi
lăm năm trước tại Mỹ, nhưng nhận định này lại được đưa ra bởi một người New
Zealand, người thực sự đã trở thành một nhà trị liệu vào năm 1950:
“Tình huống mà bạn
mô tả nghe giống hệt New Zealand khi tôi mới bắt đầu trở thành nhà trị liệu. Đừng
lo,” bà ấy nói, “người Việt Nam rồi sẽ dần dần tìm ra cách giải quyết, cũng như
chúng tôi đã làm trong suốt năm mươi năm qua.”
Đó có vẻ là một viễn
cảnh khá ảm đạm đối với 86 triệu người dân đang sinh sống tại Việt Nam ngày
nay, phải không?
Ở Mỹ hiện nay, Hiệp
hội Vật lý Trị liệu Hoa Kỳ khuyến nghị rằng những người mới bước vào ngành vật
lý trị liệu nên được đào tạo ở trình độ tiến sĩ. Tuy nhiên, các chương trình do
USAID tài trợ, như Health Volunteers Overseas (HVO), vẫn thường xuyên cử các
tình nguyện viên người Mỹ và Canada đến Việt Nam trong khoảng thời gian từ hai
đến bốn tuần để hướng dẫn lâm sàng cho các sinh viên tốt nghiệp từ các trường kỹ
thuật Y Dược chuyên ngành vật lý trị liệu hệ trung cấp (2 năm). Ngay cả khi
không cần xem xét kỹ kết quả của chương trình này - mà tôi có thể đảm bảo rằng
chúng rất kém - liệu có ai thực sự tin rằng Việt Nam sẽ có thể “đuổi kịp” các
tiêu chuẩn phục hồi chức năng được áp dụng ở những nơi khác trên thế giới
không?
Lịch sử của Việt
Nam và Mỹ gắn bó chặt chẽ với nhau theo những cách mà nhiều người Mỹ có lẽ muốn
bỏ qua. Ngay cả khi Việt Nam đang dần thoát khỏi cảnh đói nghèo cùng cực và sự
cô lập của những thập kỷ u ám do lệnh cấm vận của Mỹ áp đặt, thì một phần của lịch
sử chung đó vẫn để lại những di sản méo mó cho tương lai.
Đáng chú ý nhất,
Việt Nam bị cô lập bởi rào cản ngôn ngữ. Khi xem xét rằng phần lớn những người
nói tiếng Anh trôi chảy ở Việt Nam từng thuộc về phe thua cuộc trong một cuộc nội
chiến kéo dài và cay đắng, thì cũng không có gì ngạc nhiên khi họ sau đó bị loại
khỏi hệ thống giáo dục và bộ máy nhà nước Việt Nam. Do đó, hiện nay có rất ít
người ở Việt Nam thực sự thành thạo tiếng Anh - và những người đó chắc chắn
không phải là các kỹ thuật viên vật lý trị liệu! Ngay cả những phiên dịch viên
tốt nghiệp từ các chương trình đại học cũng có thể chưa từng tiếp xúc với người
nước ngoài trước đây. Nếu một tình nguyện viên nước ngoài may mắn được phân
công một phiên dịch viên có thể giao tiếp tiếng Anh tốt, thì những thuật ngữ mà
các nhà vật lý trị liệu cần sử dụng lại không nằm trong chương trình giảng dạy
tiếng Anh thông thường. Thực tế, thậm chí còn không có từ vựng tiếng Việt cho
nhiều khái niệm mà chúng tôi cần diễn đạt. Vậy thì làm sao có thể mong đợi điều
gì hiệu quả từ nỗ lực giao tiếp bất thành này?
Vật lý trị liệu tại
Việt Nam không phải là một nghề có địa vị cao, cũng không phải là một nghề được
trả lương cao. Chỉ 10% học sinh trung học hàng đầu ở Việt Nam mới được nhận vào
đại học, và các kỹ thuật viên trị liệu này KHÔNG nằm trong số 10% đó! Việc đào
tạo vật lý trị liệu tại Việt Nam chỉ bao gồm việc học một số “kỹ thuật” được
xác định rõ ràng và sau đó thực hành chúng dưới sự giám sát hời hợt của những
người cũng được đào tạo theo cách tương tự. Việc đánh giá và lập kế hoạch điều
trị KHÔNG nằm trong chương trình đào tạo. Tương tự, các kỹ năng hỗ trợ di chuyển
và tập đi cũng không được giảng dạy. Thế nhưng, các kỹ thuật viên sau khi hoàn
thành chương trình đào tạo tối thiểu này lại tin rằng họ đã biết tất cả mọi thứ
về vật lý trị liệu. Họ luôn tỏ ra lịch sự với các nhà trị liệu nước ngoài đến
tình nguyện giảng dạy, nhưng những nhà trị liệu quay trở lại Việt Nam sau đó đều
nhận thấy rằng những nỗ lực đào tạo của họ không để lại bất kỳ ảnh hưởng lâu
dài nào. Điều quan trọng cần lưu ý là những người giám sát vật lý trị liệu cũng
chỉ được đào tạo ở mức tối thiểu như các kỹ thuật viên khác, và họ xem nhiệm vụ
của mình là đảm bảo rằng vật lý trị liệu tiếp tục được thực hành theo cách
“đúng đắn”.
Một bạn sinh viên
vật lý trị liệu có triển vọng nhất mà tôi từng làm việc cùng (người duy nhất hiểu
được khái niệm tập đi) đã nói với tôi - thông qua một phiên dịch viên - như
sau:
“Cô biết không, em thực sự thích những gì cô đang cố gắng dạy em. Em thấy rằng phương pháp này hiệu quả hơn nhiều so với những gì chúng em thường làm ở đây. Nhưng em phải nói rằng nếu em làm việc trong một bệnh viện ở Việt Nam và cố gắng áp dụng những điều này, em sẽ bị nhắc nhở. Và nếu em tiếp tục sử dụng kỹ thuật của cô, em sẽ bị mất việc.”
Câu nói đó khiến
tôi sững sờ, bởi thật khó để hiểu được điều gì đang thực sự diễn ra khi bạn đứng
ngoài cả ngôn ngữ lẫn văn hóa của một nơi. Nhưng bây giờ, hai năm sau, tôi biết
rằng bạn sinh viên đó đã nói sự thật. Ngay cả sau hai năm làm việc liên tục tại
một cơ sở, với một phiên dịch viên tận tâm, tôi cũng không thể thành thật nói rằng
mình đã có thể tạo ra sự thay đổi đáng kể nào trong thực hành tại đó.
Mặt khác, gần đây
tôi đã có cơ hội làm việc cùng hai nhà hoạt động trị liệu tình nguyện tại khoa
phục hồi chức năng của một bệnh viện khác, dưới sự lãnh đạo năng động của hai
bác sĩ có tư duy cởi mở. Những gì chúng tôi có thể đạt được ở đó chỉ trong vòng
hai tháng thực sự đáng kinh ngạc. Hai bác sĩ đó - từ nhiều năm trước - đã từng
nghiên cứu về phục hồi chức năng: một người từng tham gia tập huấn ở Israel và
người kia thì ở Philippines. Họ sẵn sàng, nhiệt tình và có khả năng hỗ trợ cũng
như triển khai các ý tưởng mới do các nhà trị liệu nước ngoài đưa vào. Nếu họ
thực sự được đào tạo đầy đủ như các nhà trị liệu, họ đã tự thực hiện những thay
đổi đó từ hơn mười năm trước.
Vậy đây là điều mà
các bác sĩ tiên phong đó và tôi muốn đề xuất cho tương lai của ngành phục hồi
chức năng tại Việt Nam:
Chúng tôi tin rằng
các bác sĩ trẻ làm việc trong hệ thống nhà nước, có mối quan tâm đặc biệt đến
phục hồi chức năng, nên được tạo điều kiện để theo học chương trình tiến sĩ hoặc
thạc sĩ vật lý trị liệu tại Mỹ. (Tất nhiên, trước tiên họ sẽ cần học tiếng Anh
trong một năm tại Mỹ để có thể đạt được kết quả tốt nhất trong quá trình học tập).
Hiện nay, hầu hết các bệnh viện Việt Nam đều đã có đầy đủ đội ngũ kỹ thuật viên
vật lý trị liệu với trình độ đào tạo tối thiểu, và họ sẽ giữ những vị trí đó
cho đến khi nghỉ hưu, tức là vài thập kỷ nữa. Thực tế, các sinh viên mới tốt
nghiệp còn gặp khó khăn khi tìm việc làm. Cố gắng thay đổi thực hành thông qua
hệ thống đào tạo hiện tại là vô ích trong ngắn hạn, vì các kỹ thuật viên mới sẽ
đứng dưới tất cả những người khác về thâm niên và không thể “phá vỡ hệ thống”.
Tuy nhiên, nếu có các bác sĩ vật lý trị liệu người Việt Nam được đào tạo bài bản,
họ có thể bước vào bất kỳ khoa vật lý trị liệu nào hiện có tại Việt Nam với kiến
thức, kỹ năng và thẩm quyền để đảm bảo đáp ứng được dịch vụ phục hồi chức năng
chất lượng tốt.
Ở Mỹ, có quan niệm rằng bất kỳ người Việt Nam nào khi có cơ hội vào Mỹ sẽ không bao giờ quay trở lại Việt Nam. Đây là một góc nhìn quá đơn giản, không hề tính đến việc cuộc sống ở Việt Nam gần đây đã thay đổi theo hướng tốt đẹp hơn như thế nào, cũng như việc sống trong vòng tay gia đình, văn hóa và ngôn ngữ của chính mình thoải mái ra sao. Các vị trí làm việc trong hệ thống nhà nước tại Việt Nam rất được săn đón, ngay cả khi mức lương của cả kỹ thuật viên vật lý trị liệu và bác sĩ còn thấp. Làm việc cho nhà nước đảm bảo sự ổn định về công việc, chăm sóc sức khỏe, bốn tháng nghỉ thai sản có lương, trợ cấp khuyết tật và lương hưu đầy đủ sau ba mươi năm (ở tuổi 55 đối với nữ và 60 đối với nam). Ngoài ra, các nhà trị liệu và bác sĩ thường mở các phòng khám tư nhân để bổ sung cho thu nhập từ lương nhà nước. Tôi đã sống ở Việt Nam ba năm qua và tôi không muốn sống ở nơi nào khác. Chi phí sinh hoạt thấp và nhịp sống ở đây rất, rất dễ chịu. Thật ngây thơ khi nghĩ rằng bất kỳ người Việt Nam nào cũng sẵn sàng từ bỏ một cuộc sống như vậy.